Saturday, June 27, 2020

Thánh Kinh Cựu Ước chỉ là giai đoạn khai quang

Thánh Kinh Cựu Ước chỉ là giai đoạn khai quang
JB Trường Sơn - Apr 11, 2010 6:22 AM
Tôi đã từng bỏ nhiều thì giờ để nghiên cứu Cựu Ước, đã từng bức tóc giựt râu vì những điều sai trái, hàm hồ hoặc mê tín trong đó. Nhưng sau khi đã chán chường với những ngang trái của nó, tôi bắt đầu tỉnh trí lại và tự cười chế riểu mình vì đã quá quan trọng hóa một tác phẩm của quá khứ xa xưa, đã cho nó một giá trị thực tiển có tính trường cữu. Tại sao tôi đã quan trọng hóa nó đến như vậy ? Ấy là vì tôi đã được "nhồi sọ" rằng Thánh Kinh Cựu Ước là "lời của Thiên Chúa". Có phải vì ngu muội hay là vì âm mưu mà người ta hiện nay vẫn quả quyết rằng Thánh Kinh Cựu Ước chính là lời của Thiên Chúa ? Thật ra Thánh Kinh Cựu Ước chỉ là một sách dạy dổ và học hỏi của người xưa vào cái thời mà con người chưa biết trời trăng như thế nào, cái thời mà sự tưởng tượng đã khiến cho con người đâm ra sợ hãi trước hiện tượng thiên nhiên hoặc huyền bí khiến họ phải chấp nhận mọi điều phi lý mà chẳng dám đặt dấu hỏi vì không thể nào trả lời được, cai thời mà tiên tri Ezekiel khi thấy phi thuyền không gian của người ngoại tinh cầu xuất hiện thì lạy sói trán và cho đó là thần linh, là Thiên Chúa..
Đối với thời đại Kitô Giáo hiện nay, thiết tưởng giá trị của Cựu Ước đã không còn cao đẹp như thời cổ xưa mà nó chỉ còn giá trị di sản văn hóa mà thôi, vì tín lý trong đó đã biến thành thô thiển như chiếc xe thổ mộ (xe có bánh gổ do trâu bò kéo), chỉ có thể giúp cho con người sống vâng phục một kiếp nô lệ sợ hãi trước cường quyền chứ không giải phóng họ bằng tình thương và giao cảm.
Giờ này mà còn nghiên cứu Cựu Ước để tìm chân lý thì hơi buồn cười vì chẳng ai còn đi nghiên cứu bánh xe thổ mộ để tìm khuyết điểm trong sự tròn méo của nó, cũng giống như người ta không còn phê bình cách thức thiếu vệ sinh của cha ông Việt-Nam chúng ta cách đây 1 thế kỷ khi họ đi cầu xong phải gạt đít bằng ngón tay cho sạch sẽ. Ở thời đại mà ngành thiên văn đã nhìn thấy những tinh tú xa hàng mấy ngàn năm ánh sáng mà còn bàn cải Trái đất (à, phải nói là Mặt Đất) là một mặt bằng phẳng nằm giữa hai khối nước như Sách Khải Nguyên (Genesis) đã trình bày thì thật là trò chơi để tiêu pha thì giờ của trẻ con.
Vậy hảy bỏ qua chuyện nghiên cứu Cựu Ước như là sách truy tìm chân lý mà chỉ nên nghiên cứu nó dưới con mắt tìm hiểu văn hóa và lịch sử mà thôi. Đừng tranh luận gì về nó cho nhọc sức dở hơi. Nếu trong hiện tại còn có những người bám víu vào Cựu Ước để cho rằng đó là chân lý thì điều này đã bị Chúa Giêsu phê phán rồi. Những người tin mù quáng vào Cựu Ước và tuyên truyền những điều thô thiển trong đó thật đã xem thường công lao giảng dạy của Chúa Giêsu, vì mục đích của Chúa Giêsu khi đến trần gian này, ngoài việc chịu đóng đinh trên khổ giá để cứu chuộc nhân loại, còn là rao giảng một giáo lý mới cho muôn dân. Ngài phải mất ba năm đi rao giảng, tuyển mộ môn đồ và truyền lịnh cho họ phải : “.. dạy bảo muôn dân tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em..". (Matthew 28:20). Rõ ràng Ngài KHÔNG KHUYẾN KHÍCH họ loan truyền giáo lý cũ trong Cựu Ước với những giết chóc tru diệt, mắt đền mắt răng đền răng, mà chỉ dạy dổ muôn dân tuân giữ "mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" thôi, đó là những giới răn mới tràn đầy nhân bản, tôn trọng mạng sống con người, khoan dung và tha thứ, hoàn toàn khác hẳn những hung bạo của đấng Giavê (Jehovah) trong Cựu Ước . Chúa Giêsu cũng đã răn dạy rằng: Không nên pha trộn giáo lý mới của Ngài với giáo lý cũ vì hai bên sẽ chọi nhau. (Luke 5:36-38 : .. Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này: "Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ. 37 "Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38 Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới.
Ngài nói trước rằng:... Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: "Rượu cũ ngon hơn" (Luke 5:39)
Câu cuối cùng này ngụ ý rằng những kẽ khen Cưụ Ước hay tốt là nhũng kẻ ngoan cố và đầy thành kiến.
Các đoạn kinh thánh nêu trên còn cho thấy sự bất tương dung giữa hai nền giáo lý cũ của Cựu Ước và mới của Tân Ước và khuyên những ai đã dùng thứ nào thì không nên dùng thứ kia vì phá hỏng đức tin. Bởi lẽ Ngài đã sai bảo các tông đồ đi rao giảng giáo lý mới của Ngài, như vậy gián tiếp Ngài đã dẹp giáo lý cũ của Cựu Ước qua một bên không dùng tới nữa để tránh sự đối chọi.
Cựu Ước chỉ là "giai đoạn khai quang" còn Tân Ước mới là một phi đạo đã được thành lập để “chiếc máy bay cứu rổi Giêsu” cất cánh đưa chúng ta lên trời, dẩn tới sự sống muôn đời. Có phi đạo tráng nhựa xây đắp tốt lành rồi thì sự khai quang đã chấm dứt, nó chỉ là ấn tượng có giá trị lịch sử mà thôi chứ không còn tác dụng trên thực tế nữa.
Cách đây 2 ngàn năm Chúa Giêsu đã bị giới luật sĩ lên án là đã dám sửa đổi Thánh Kinh Cựu Ước mà họ xem như bất khả xâm phạm, và Ngài đã trả lời rằng: "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.
Quả đúng như vậy, Ngài không hề sửa đổi một chấm phết nào, Ngài chỉ lập nên những luật lệ và giáo lý mới, còn luật lệ cũ thì không hề sửa đổi, vẫn để y nguyên đó, bảo tồn nó kỷ lưỡng như ở bảo tàng viện để ai muốn nghiên cứu học hỏi thì cứ làm. Bên cạnh túp lều da của Abraham, Ngài đã xây dựng một căn nhà bằng gạch đá vững chắc để bảo vệ đàn chiên cừu của Ngài khỏi sự de dọa của sói lang, con chiên nào muốn vào đó để trú ẩn thì sẽ được sống an toàn, còn con chiên nào muốn ra nằm ngủ quanh túp lều của Abraham thì vẫn được tự do đến đó nhưng phải đối diện với thử thách và nguy hiểm. Vì không đọc rõ Tân Ước, bọn phản đạo thường chỉ trích rằng Chúa Giêsu muốn loại bỏ Cựu Ước. Nhưng Ngài nói rất rõ ràng là Ngài không loại bỏ lề luật cũ của Cựu Ước mà chỉ ngăn cách và để dành nó qua một bên để những ai muốn dùng nó thì hãy dùng, còn những ai ham chuộng sự cứu rỗi cho linh hồn để hưởng hạnh phúc nước trời thì hãy dùng lề luật mới hữu hiệu và cao siêu hơn. Ngài nói : … nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới, thế là giữ được cả hai (có nghĩa là bầu rượu cũ cũng sẽ được bảo toàn nếu chỉ dùng để chứa rượu cũ thôi).
Quý vị hãy thử vào viện bảo tàng để ngắm chiếc xe đạp của thời xa xưa xem có ai đã thò tay vào để biến cải phụ tùng nào của nó không ? Không, nó vẫn được giữ nguyên vẹn như thời mới được chế tạo, bản đồ thiết kế vẫn được giữ gìn để ai có thích thì cứ sao chép về chế tạo lại một chiếc để xài cho vừa ý thích. Chiếc xe đạp Cựu Ước là một dụng cụ rất hữu dụng cho con đường làng, nhưng nó bị cấm không được đi vào xa lộ, vì ở đó dành cho những xe hơi thời đại mới chạy cao tốc sẽ khiến cho xe đạp gặp tai nạn. Vậy xe đạp chỉ nên dùng cho những nơi không có xe hơi.
Trong Cựu Ước, Đức Gia vê không bao giờ hứa ban cho con người cuộc sống vỉnh cửu mà chỉ là đất đai và vương quyền trên trần thế với cuộc sống tạm bợ mà thôi, trái lại Chúa Giêsu đã nối chúng ta được với sự sống vỉnh cửu bằng lòng Tin vào Ngài: “những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (John 1:12) .


Hủ Lô nay đã hết thời
Vào bảo tàng viện nghỉ ngơi yên hàn
Đừng làm việc thừa thải vừa mất công, vừa làm cho bạn loạn trí vì sẽ gặp phải nhiều mô tả sai lầm trong đó: Những đấng thần linh mà các tiên tri và tổ phụ trong Cựu Ước nhìn thấy được không phải là Thiên Chúa mà chỉ là những thiên sứ của Ngài mà thôi vì thánh Gioan đã khẳng định rằng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;” (John 1:18). Tiên tri Ezekiel đã mô tả Đức Jehovah (Gia vê) như là vị thần linh tầm thường, không phải là Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho loài người mà chỉ là vị thần linh qua đường, tình cờ nhìn thấy loài người đáng thương cho nên ra tay nuôi dưởng họ: “Ngày mới sinh ra, ngươi bị quẳng ra giữa đồng vì ai cũng ghê tởm ngươi. Ta đi ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi giẫy giụa trong máu.” (Ezek 16:5-6). Ông cũng mô tả Đức Jehovah (Gia vê) như là một ông thần phù thủy bày vẻ cho ông hành nghề bùa ém để trừng phạt dân Israel (Ezekiel chương 4). Thật trái ngược với lời mô tả của Chúa Giêsu về Thiên Chúa, Cha của Ngài thương yêu mọi con cái dù chúng xấu và phản bội.
Kết Luận: Đọc Cựu Ước như là tài liệu trong viện bảo tàng mà thôi, vì những điều dạy trong đó có quá nhiều thiếu sót và sai lầm, riêng những điều cho rằng hay ho trong Cựu Ước cũng không thể sánh bằng lời giáo huấn của Chúa Giêsu. Đọc hết Thánh Vịnh của David cũng không thể tạo được lòng yêu mến và khâm phục Thiên Chúa cho bằng nhìn ngắm sự cấu tạo tinh vi của DNA và sự bao la huyền bí của vũ trụ khiến tâm hồn con người ngất ngây trước sự toàn năng của Ngài. Những khám phá của loài người sau này về vủ trụ đã hé lộ cho loài người biết thêm nhiều về Đấng Chủ Quản của nó, đấng này mới chính là Thiên Chúa “Thật” chứ không phải là vị thần Jehovah (Gia vê) đã được các tiên tri mô tả. Trong kinh Tin Kính của đạo Công Giáo có câu nói về Đấng này khi tuyên xưng đức tin với Đức Giêsu rằng : “Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi ánh Sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa Thật, được sinh ra mà không phải tạo thành …” . Câu này chứng tỏ Hội Thánh Công Giáo đã biết rằng có một vị Thiên Chúa giả mà một số mô tả trong Cựu Ước đã cầm nhầm, đấng đó không phải là đấng Thiên Chúa Thật mà Đức Giêsu tuyên xưng mình là con của Ngài và gọi Ngài bằng Cha (Abba). Ở đây chúng ta cũng lấy làm lạ tại sao Hội Thánh Công Giáo đã biết Cựu Ước là lầm lẫn mà vẫn ôm lấy nó khư khư và gọi đó là “lời Chúa” để kéo dài sự hoài nghi và bất phục của những người đang khao khát gia nhập vào Hội thánh của Chúa Kitô !! Có thể hiểu rằng họ là những kẻ có được rượu mới, nhưng vì đa số người dân đều thích rượu cũ cho nên họ cũng không dám từ khước bán rượu cũ cho dân vì như vậy sẽ không kiếm được nhiều lợi nhuận.
Tân Ước mới là chìa khóa của chân lý chứa đụng mọi lời giải đáp cho những ai khao khát tìm về nước Chúa.
Các bạn còn muốn đả kích Cựu Ước nữa thôi ?? Bạn có còn thấy chiếc “xe hủ lô” (xe cán đá “cổ lổ sỉ” của thời Pháp thuộc tại VN) sỉ rét vứt bỏ trên mặt phi đạo ở phi trường không ? Nếu thấy thì xin bỏ công đẩy nó qua một bên lề đường để nhường chỗ cho máy bay cất cánh, đừng mang đồ nghề ra để tháo gở mong sửa chửa và sơn phết nó làm gì !
Hiện nay có nhiều tôn giáo đang duy trì sách Cựu Ước như là lời thánh kinh bất di dịch và buộc phải vâng theo (chẳng hạn đạo Jehovah Witness tự cấm mình không được truyền máu [blood transfusion] bởi vì trong Cựu Ước cấm không được uống máu của sinh vật vì máu là mạng sống Thiên Chúa ban có khả năng xá tội (Leviticus 17:10-16)! Tuy nhiên có một thứ đạo gọi là đạo mới, đó là đạo của Đức Kitô (christianity) tức là đạo áp dụng các giáo huấn của Đức Jesus Christ, đạo này đang thi hành lời giáo huấn không được pha trộn giáo huấn cũ và mới với nhau mà chỉ rao giảng và dùng những giáo huấn mới của đấng Christ mà thôi. Những ai tự xưng mình là Kitô Hữu (christian) mà lại tôn thờ Cựu Ưóc thì hẳn đã chối bỏ tư cách tín đồ Kitô của họ. Hội thánh Công Giáo tuy cũng tự xưng là Kitô Giáo nhưng cũng mon men thèm lạt cái thứ rượu cũ của Cựu Ước. Tuy nhiên họ chỉ uống pha thêm chút đỉnh thôi, nhưng lắm khi cũng đủ làm cho nứt bầu toạc áo (chẳng hạn vụ án kết tội tử hình cho ông Galileo Galilei, bởi vì Cựu Ưóc dạy rằng mặt trời quay xung quanh quả đất chứ không phải như nhà thiên văn này chứng minh ngược lại.. vv.)
-----------

Wednesday, April 22, 2020

Phải chăng Ađam là người đầu tiên trên trái đất ?

Phải chăng Ađam là người đầu tiên trên trái đất ?
Tác giả : JB Trường SơnNgày đăng: 2020-04-22
Theo KinhThánh Cựu Ước thì những người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng trên trái đất này là hai ông Bà Ađam và Eva. Hai ông bà sau đó sinh được hai con trai, anh đầu tên là Cain và người em là Abel. Vì ganh tức cho nên Cain đã giết Abel. Sau khi Cain phạm tội giết em và bị Thiên Chúa nguyền rủa và đuổi đi xa thì y than trách: "Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi. …. và bất cứ ai gặp con sẽ giết con. ĐỨC CHÚA phán với ông: "Không đâu! Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy." ĐỨC CHÚA ghi dấu trên Ca-in, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. Ông Ca-in đi xa khuất mặt ĐỨC CHÚA và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen." .” (Gen 4:13-16).
Thử hỏi, lúc đó ngoài Ađam là người đàn ông duy nhất trên thế gian thì đâu còn có ai xa lạ nữa mà Cain phải sợ hãi bị giết ? Và tại sao Thiên Chúa lại dùng chữ bất cứ ai khi trên trái đất này chỉ có hai người đàn ông một là Cain hai là Ađam ?? Có thể nghĩ rằng vào thời Cain bị Chúa đuổi đi thì Ađam đã có sinh thêm nhiều con gái từ sự giao hợp của ông với Eva (vì Thánh Kinh không buộc phải ghi chép tên con gái cho nên chúng ta có thể nghĩ như vậy) nhưng chưa có con trai nào khác. Vậy Cain lúc đó sợ ai?
Có thể tạo giả thuyết cho rằng, ngoài gia đình của Ađam thì lúc đó đã có những giống người khác sống ở trên trái đất cho nên Cain lo sợ bị họ giết.
Sau khi Cain bị Chúa đuổi đi xa đến xứ Nốt ở hướng đông vườn Eden, y ra đi đơn độc hoặc có thể kèm theo một cô em gái nào đó để làm vợ, hoặc nữa là lấy vợ từ một nguồn gốc nào khác. Sau đó y sinh ra con trai tên Enoch (Kha-Nốc) và xây thành lủy và lấy tên con trai mình là Enoch mà đặt tên cho thành đó (Gen 4:16-17)
Thử hỏi nhân công từ đâu mà y có đủ để giúp y xây thành ? Y có thể tự xây cho mình một cái nhà, nhưng y không thể một mình xây thành lủy lớn được. Phải chăng y đang sống chung với bọn “nhân gian” trong một xứ đông người và y đang cai trị chúng ? Ta có thể suy ra là ngoài gia đình Ađam, thời đó còn có những giống người khác nữa. Chẳng hạn hồi đó cũng giống như hiện nay đã có những sắc dân da vàng trắng đỏ, đen v..v.. có thể đã do Chúa tạo dựng riêng biệt chứ không phải là do từ một nguồn gốc Ađam mà ra.
Một giả thuyết khác mà chỉ ở cuối thế kỷ 20 này mới có thể được dễ dàng chấp nhận là : Trong vủ trụ do Ðấng Tạo Hóa tạo dựng có nhiều hành tinh có sinh vật ở và nhất là sinh vật có hình thể và trí thông minh như con người. Ađam và Eva được tạo dựng trên một hành tinh tốt đẹp được gọi là Eden (Vườn Địa Đàng) để gầy nên một giống người “bất tử”, nhưng vì bị Satan xúi họ phải trưởng thành cấp tốc cho nên họ đã tự phá hỏng quy trình phát triển khiến què quặt về sinh lực và trí lực nên phải chết yểu. Thiên Sứ được lệnh của Thiên Chúa phải cách ly Ađam và Eve khỏi hành tinh Eden và ngăn cản con đường trở lại của họ vào hành tinh này bằng một lưỡi gươm lữa quay tứ phía (radar có kèm theo súng laser ??)  (Gen 3:24)


sự gợi hình giữa "gươm lủa quay tứ phía" với màn ảnh radar
Họ bị gởi xuống hành tinh Trái Ðất là nơi đã có những sắc dân hửu tử khác ở, và sau này Cain làm thủ lãnh một trong số những dân này và gây dựng giống nòi mau lẹ. Thỉnh thoảng thì Chúa lại sai Thiên Sứ từ nơi hành tinh Eden hoặc những hành tinh xa xôi khác đến thăm viếng hành tinh Trái Ðất để xem gia đình Ađam và con cháu ông ta ăn ở ra sao hầu hướng dẩn, dạy dổ, giúp đở. (quả thật Thánh Kinh có nhắc đến chuyện Thiên Chúa quan tâm đến loài ngươì và đã hỏi han các Thiên Sứ như sách JOB 1:6-7 đã kể) Những Thiên sứ này vì mang mệnh lệnh của Thiên Chúa cho nên nhân danh Ngài mà ra điều luật cho con cháu Ađam ở trái đất phải tuân theo, đồng thời cũng trừng phạt thẳng tay những tên ngu si phản loạn.


Thiên sứ từ trời xuống dẫn gia đình ông Lot ra khỏi thành Sodom đang bị Thiên Chúa thiêu đốt
Nhưng trong số các Thiên sứ (còn được gọi là “the Sons of the True God” tức "các con trai của Thiên Chúa Thật") cũng có những nhóm ham mê sắc dục, thấy con gái loài người xinh đẹp nên lấy họ làm vợ, thích ai lấy nấy,


và sau đó sinh ra một giống người khổng lồ dũng mãnh gọi là Nephilim. (Gen 6:1-4). Giống người Nephilim này được Kinh Thánh mô tả ở đoạn Dân Số 13: 33 như sau: "… chúng tôi đã thấy trong toàn xứ là những người có vóc dạng to lớn. Chúng tôi đã thấy ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq, thuộc hạng người khổng lồ). Quay mắt nhìn mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó!"
Những bộ xương của giống người Nephilim được khai quật
Bởi vì Ađam đã được sinh ra ở hành tinh Eden, bị đuổi ra khỏi đó và được đưa đến trái đất này nên hình ảnh của Eden luôn nằm trong tiềm thức của ông và con cháu ông. Và Môisen, người viết ra sách Sáng thế Ký (Genesis), có thể nhớ lại qua tiềm thức của mình hình ảnh của Eden và những điều trong quá khứ mà không cần phải học hỏi từ đâu cả hoặc nữa là đã được hiệp thông tư tưởng với Thiên Chúa để biết và viết lại những chuyện mà ông chưa từng trải qua. Một số người tưởng rằng Eden là một chốn ở trên trái đất này cho nên muốn tìm tòi vết tích nhưng đã không hề tìm thấy được. Người xưa nghĩ rằng chỉ có Trái Đất mới là nơi duy nhất có sự sống và là chỗ ở của loài người vì thế họ tin chắc vườn Eden chỉ ở nơi này mà thôi.
Nhưng Ðức Giêsu lại nói : Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở (Gioan 14:2) Chúng ta có thể hiểu rằng ngoài quả đất này ra, trong vũ trụ còn rất nhiều chỗ (có thể là hành tinh, ngôi sao, hoặc chốn nào đó mà con người chưa hình dung ra được..) mà Thiên Chúa dùng để cho các bậc linh thiêng, các Thiên sứ hoặc ma quỷ, và những giống người kiện toàn hoặc bất toàn khác ở.


"Trong nhà của Cha Thầy có nhiều chỗ ở"
Thuyết tiến hóa cho rằng loài người nguyên thủy không phải được tạo dựng tức thời mà phải qua một quá trình biến hóa thay hình đổi dạng hàng triệu năm. Nhưng theo kinh thánh thì Ađam và Eve không phải do tiến hóa mà thành, mà họ là cặp nam nữ xuất hiện đầu tiên được cấu tạo mau chóng bằng phương pháp khoa học của Thiên Chúa, phương pháp này đã được khoa học thời nay hiểu được phần nào qua sự khám phá ra DNA và sự tạo sinh vô tính, tức là phương pháp đốt giai đoạn, để có một giống người tốt hơn và bất tử.
Thuyết tiến hóa cũng phù hợp với Thánh Kinh khi cho rằng loài người đã phát xuất từ cát bụi, từ chất vô cơ. Với thí nghiệm, người ta đã khám phá rằng chất căn bản cho sự sống là amino acids có thể được tạo ra từ các chất vô sinh (tức cát bụi như trong kinh thánh đã ghi), và người ta đã nghĩ rằng loài người và các sinh vật sẽ theo thời gian đăng đẳng mà biến hóa từ cát bui ra thành động vật trên trái đất này. Tuy nhiên có một yếu tố khẳng định rằng các sinh vật phức tạp như con người hay con ong vv.. khó có thể xuất hiện trên trái đất qua quá trình tiến hóa từ chất vô cơ qua hữu cơ rồi đến sinh vật có cấu trúc phức tạp. Vì sao ? Xin thưa là không có đủ thời gian cho nó tiến hóa. Nếu theo xác xuất may rủi thì muốn cho 10 hạt "đê" (dice = súc sắc) 6 mặt có cùng một mặt số giống nhau thì phải dùng tay xóc đến 610 lần (6 lủy thừa 10, tức 60,466,176 lần). Nếu mỗi lần xóc mất đi 10 giây (second), thì thời gian tổng cọng phải mất 604,661,760 giây, hay 16,961 giờ, hay 706 ngày (tức mất gần 2 năm). Đó là thời gian dùng ý chí con người để lắc mấy con súc sắc, còn nếu cho để trời đất may rủi (tiến hóa) di chuyển mấy súc sắc đó để cho chúng có 10 mặt giống nhau thì chắc mất cả 10 ngàn năm vẫn không thể thành công được. Đó chỉ là 10 con súc sắc đơn giản thôi, nhưng nếu đó là hàng vạn yếu tố di truyền trong DNA thì dù phải trải qua 7 tỷ năm đi nữa thì những yếu tô này cũng không thể tự tạo được DNA của một sinh vật như con cá hay con muỗi.
Khoa học cho rằng sự sống trên trái đất này đã được mang từ ngoài vũ trụ vào hoặc là do phép mầu của một trí thông minh nào đó tạo ra trên trái đất chứ nó không thể tự phát sinh ra ở hành tinh của chúng ta bằng sự tiến hóa may rủi của tự nhiên. Vì sao ? vì tuổi của trái đất chỉ có 4.5 tỷ năm, nhưng thời gian đầu nó chỉ là một quả cầu lửa nóng cháy không thể có sự sống được, chỉ vào khoảng 1.5 tỷ năm sau thì nó nguội lại để có đủ điều kiện cho sự sống phát triển. Vì thế tính chung thì sự sống chỉ có thể xuât hiện trên trái đất từ 3 tỷ năm trở lại đây thôi. Nói tóm là DNA không có đủ thời gian để tự tạo trên trái đất này. Nếu suy từ những gì Kinh Thánh kể lại thì sư kiện "nhập cảng" từ không gian vào là chuyện có thật, chẳng hạn Kinh Thánh đã ghi nhận là "các con trai của Thiên Chúa" từ trời đã xuống trần gian và lấy con gái của loài người sinh ra giống khổng lồ Nephilim. Vậy chúng ta có thể nghĩ rằng họ đã mang theo họ nhiều sinh vật khác từ không gian vào trái đất để gầy giống, chăn nuôi vv... và biết đâu giống người Ađam và Eva cũng do từ trời mang xuống trái đất ! Và cũng theo lối suy nghĩ đó, chúng ta có thể cho rằng các sinh vật tiến hóa trên trái đất chẳng là bao, mà hầu hết chúng đều được mang từ ngoài không gian vào.
Ngày nay, người ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa của câu nói trong Cựu Ước rằng Thiên Chúa tạo dựng bà Eva từ một xương sườn của Ađam (tức tạo sinh vô tính đốt giai đoạn), còn Ađam thì được tạo dựng bằng các chất hữu cơ phát xuất từ cát bụi.
Nói như trên có nghĩa là Ađam và Eva được tạo dựng về sau này mà thôi chứ không phải là người đầu tiên trên trái đất này. Nhưng một cách khác, cũng có thể nói là Ađam và Eve là đôi nam nữ “đầu tiên” được tạo dựng không qua luật tiến hóa tự nhiên mà bằng phương pháp đặc biệt rút ngắn giai đoạn.
Thiên Chúa dã tạo dựng Ađam từ cát bụi là như thế nào ?
Ai cũng biết rằng vũ trụ được hình thành từ năng lượng qua vụ nổ Big Bang, và năng lượng đó biến thành vật chất vô cơ, và chất vô cơ lại biến thành hữu cơ do sự biến hóa trong các nguyên tử, và từ đó vũ trụ có được các nguyên tố hữu cơ là amino acid để cấu tạo nên sự sống. Và sau khi cát bụi trở thành chất tố hữu cơ, Thiên Chúa đã nhào nặn nó dể tạo nên cơ thể của muôn loài, kể cả Ađam.
Lilith, bà vợ đầu của Ađam đã bỏ ông để chạy theo Satan (biểu tượng là con rắn)
Vậy tại sao Thiên Chúa lại không dựng nên người đàn bà cho Ađam từ chất hữu cơ thô mà lại dùng xương sườn của Ađam ? Sách Sáng Thế Ký không nói rõ điều này, nhưng đã để lộ bí mật cho chúng ta thấy rằng Ngài đã thực sự dùng chất hữu cơ thô để tạo dựng nên người đàn bà cho Adong nhưng bà này không thích hợp với Ađam. Hãy nghe Ađam reo lên vui mừng thi nhìn thấy Eva được dựng nên bên cạnh mình sau khi ông ra khỏi cơn hôn mê của cuộc giải phẩu : "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! " (Sáng thế 2:23) ("This is now bone of my bones, and flesh of my flesh..). Tại sao Ađam lại nói "Phen này" (bây giờ) ?
Xin thưa là trước đó đã từng có một phen rồi nhưng xương thịt của người đàn bà đó không thích hợp với Ađam ! Điều này khiến ta nghĩ rằng Thiên Chúa đã từng tạo cho Ađam một hay nhiều bà, nhưng tất cả đều không tâm đầu ý hợp.
(Đoạn văn sau đây theo lối khôi hài) Có thật không đây ? Sao Thánh Kinh lại không nói tiếp mà chỉ ởm ờ như vậy ? Nhưng sự thật có thể đúng như vậy.
Sách Kinh Sử Talmud của Do Thái giáo kể rằngThiên Chúa đã từng tạo dựng một bà xinh đẹp cho Ađam tên là Lilith bằng cách nhào nặn từ cát bụi theo kiểu cũ, nhưng tính tình bà này ngang ngược không chịu phục tùng Ađam, thích cải cọ, lại còn thích chủ động mọi chuyện kể cả chuyện tình ái dưới tàng cây hay bên bờ suối, bà này thích cởi trên Adong khiến ông kham không nổi phải chạy dài ! KKK ! Vì không thỏa mãn, bà bỏ Ađam chạy theo tên thiên sứ dâm đảng (tên quỷ của bóng đêm) và trở thành một phụ nữ tàn ác.
Khi nhìn Eva dịu dàng dễ thương và vâng lời, Ađam rất hài lòng và gọi là "mình ơi" vì bà chính là thân mình của Ađam ! (chấm dứt khôi hài)


Eva dịu dàng dễ thương va tuân phục
Dựa theo đâu mà dám nói Adong không phải là người đầu tiên của nhân loại ? Thưa cũng dựa theo Thánh Kinh Cựu Ước ! Theo gia phả của Chúa Giêsu ghi trong Kinh Thánh thì đếm từ “Người dầu tiên” của nhân loại là Ađam cho đến Chúa Giêsu có tất cả là 61 thế hệ.
Từ Ađam cho đến ông Noah tuổi thọ của họ rất dài (kiếp sống dài gần 1000 năm), có lẽ là do thành quả của tạo sinh vô tính đã đạt được một phần nào cái mục đích “bất tử hoá” giống người ở Eden.
Kể từ ông Noah trở đi thì “Thiên Chúa đã giảm tuổi thọ của họ xuống còn 120 tuổi mà thôi” (Gen 6:3). Vậy tính từ Ađam cho tới năm 2000 thì thời gian đã trải dài là :
-- từ Ađam đến Noah :
Ađam (thọ 930 tuổi), nhưng bắt đầu sinh con nối dỏi là Seth ở tuổi 130, tức từ Ađam đến Seth là 130 năm, được ký hiệu như sau :
Ađam (thọ 930 tuổi) - 130 - Seth (thọ 912) - 105- Enosh (thọ 905) - 90 - Cainan (thọ 910) - 70 - Mahalalel (thọ 895) - 65- Jared (thọ 962 ) - 162- Enoch (thọ 365) - 65- Methuselah (thọ lâu nhất: 969) - 187- Lamech (thọ 777) - 182- Noah (thọ 950) - 5 00- Shem (Noah đến tuổi 600 thì Lụt Đại Hồng Thủy)
Vậy từ Ađam đến Shem mất : 130 + 105 + 90 + 70 + 65 + 162 + 65 + 187 + 182 + 500 = 1556 năm
--- Từ Shem đến Abraham có 8 (hoặc 9) đời : Các đời nối tiếp nhau trung bình 30 năm (vì tuổi thọ đã giảm xuống 120 tuổi như người thời nay cho nên sinh sản cũng mau như thời nay, ước tính đến tuổi 30 thì sinh con. vậy thòi gian tổng cọng là 30 x 9 = 270 năm
--- Từ Abraham đến Chúa Giêsu là 42 đời, tổng cọng thời gian nối tiếp nhau là 30 x 42 = 1260 năm
---- Từ Chúa Giêsu đến bây giờ là 2000 năm
Vậy tổng cọng tuổi của nhân loại theo Thánh Kinh là 1,556 + 270 + 1,260 + 2,000 = 5,086 năm Tính tròn là 5 ngàn 100 năm.
Như vậy thì quá sai đối với những gì khoa học khảo cổ đã tìm ra: Người khôn ngoan (có trí tuệ) đã xuất hiện trên trái đất đã 2.5 triệu năm rồi (see website http://ancients-bg.com/how-old-is-mankind/)
Vậy theo suy luận thì Ađam và Eva được tạo ra khi trên trái đất này đã có nhiều người rồi. Và lẽ dỉ nhiên là Ađam đã được gầy dựng từ một cái gène có trí tuệ chứ không phải gène của con giả nhân, vì ông biết nói và biết đặt tên cho mọi loài thú vật trong vườn Eden theo ngôn ngữ của ông, và có thể trò chuyện cùng Thiên Chúa.
Thiết nghĩ loài người từ nguyên thủy chính gốc là từ cát bụi, và cát bụi vô cơ này do biến hóa của thiên nhiên đã trở thành chất hữu cơ, và sau đó nhờ sự sáng tạo sắp xếp của Đấng Tạo Hóa Thông Minh mà những chất hữu cơ (amino acids) này được ghép thành sự sống trên trái đất, và được tiến hóa từ từ qua hằng triệu năm để trở thành nhiều dạng sinh vật khác nhau có đời sống ngắn ngủi. Đấng Thiên Chúa (hay Thiên Sứ) đã dùng phép tắc (hay khoa học) gầy ra giống người thông minh là Ađam “theo hình ảnh của họ” (Gen 1:26), sống bất tử và trí tuệ hơn vv…. Nhưng Satan đã can thiệp khiến Ađam và Eva suy thoái, không còn bất tử và mất đi khả năng tiếp nhận sinh khí từ Thiên Chúa, họ phải chết cả thể xác lẫn linh hồn. Như vậy loài người hẳn đã bị kết án diệt vong, không thể nào tồn tại vì mất hết năng lực siêu nhiên, họ sẽ không còn có khả năng "là một người như Chúng Ta" (giống như Thiên Chúa - KN 3:22) để có thể sống mãi về cả hai mặt thể xác và linh hồn. Thế nhưng Đấng Cứu chuộc đã đến, Ngài muốn móc nối lại sự sống cho loài người, Ngài sẽ làm đẹp lòng Đấng Toàn Năng để xin móc nối lại nguồn sinh lực cho nhân loại. Ngài tự nguyện mang lấy thể xác hữu tử của loài người để tạo điều kiện cho loài người được tiếp tục nhận sinh khí linh thiêng từ Thiên Chúa. Nhờ Ngài mà loài người giờ đây, dù thể xác có trở về cát bụi nhưng linh hồn của họ vẫn còn có giá trị để tồn tại trong cơ thể sống động của Ngài, họ được lưu giữ như cành cây nối liền với Thân Cây chứ không còn bị cắt lìa rồi khô héo như trước (Jn 15:5).
Tất cả những gì nói trong đoạn trên đều là giả thuyết, nhưng giả thuyết lắm lúc cũng ích lợi vì nó giải tỏa chúng ta khỏi những bế tắc của tâm hồn và đưa chúng ta vào những bờ bến rộng lớn hơn, và biết đâu, lại chân thật hơn.
Có nhiều học giả bây giờ đang dựa vào Thuyết Tiến Hóa để công kích dữ dội vào Thánh Kinh. Họ bảo rằng Ađam và Eve không thể nào là cặp nam nữ đầu tiên và duy nhất do Thiên Chúa Tạo dựng tức thời, mà nguồn gốc của con người hiện đại phải phát xuất từ một tế bào sống tiến hoá từ từ thành hàng loạt những con cá, những con nhái hay con khỉ gì đó và từ đó sinh sản và biến dạng qua giống người có trí tuệ trong một quá trình dài hàng triệu năm. Và khi mà nhân loại đã không do một cặp nam nữ duy nhất là Adong và Eva đẻ ra thì làm gì có tội tổ tông do họ đã phạm và truyền lại, và khi đã không có tội tổ tông thì cần gì phải có Chúa Giêsu đến trần thế để chuộc tội cho nhân loại.
Đây là một tranh cải ít có lời giải đáp . Chúng tôi sẽ nói về tội tổ tông trong một bài khác. Ở đây chỉ nói về nguồn gốc của Adam và Eva thôi.
Khi bàn cải về Kinh Thánh, chúng ta không nên đặt niềm tin mù quáng vào kinh sách như các nhà thần học chỉ biết nhìn về một hướng, mà chúng ta nhìn với nhãn quan của khoa học và lý luận đa chiều. Vì thế không nên cực đoan khi phê bình kinh sách cổ xưa, vì kinh sách chỉ là khái niệm cần phải bổ sung với thời gian. Nếu ép buộc bám sát vào nghĩa đen của từng chữ thì trí tuệ của con người đâu cần thiết nữa để suy luận va hiểu thấu ý nghĩa của thần học, của văn chương và triết học, đâu còn cần thiết phanh phui ra chân lý ? Vì vậy người viết bài này hoàn toàn bác bỏ việc bám víu vào kinh sách từng chũ một xem đó là Lời Chúa, là chân lý bất di dịch. Y đưa ra những giả thuyết nêu trên mong mở thêm một lối suy tư cho ý nghĩa của Tạo Dựng, của Tội Tổ Tông, của Cứu Chuộc và của sự Huyền Bí về Lực Chuyển Hóa từ vô sinh, vô cơ qua đến hiện trạng hữu sinh, hữu cơ của mọi sinh vật trong vũ trụ. Chỉ bao giờ khoa học và trí tuệ có khả năng mở rộng cánh cửa thể giới năng lượng vô hình, thì may ra loài người mới bớt nông cạn, bớt đi sự mê muội kiêu căng của những hiểu biết thu lượm chỉ bằng ngủ quan, để tiến lên xa hơn vào lãnh vực của tâm linh, của năng lượng, của lượng tử, tức phải biết tìm hiểu cái đơn vị nhỏ nhất của mọi cấu tạo rồi đi đến những gì lớn hơn trong vũ trụ quanh ta.

**************